Tác giả: Lê Minh
Tên đề tài: “Giảng dạy một số bản nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam”
Chuyên ngành: Phương pháp giảng dạy chuyên ngành Âm nhạc (Nhị)
Mã số: 60 21 02 02
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. Vũ Chí Nguyện
Ngày đăng: 15/10/2019
Luận văn toàn văn
Tóm tắt Luận văn
MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài
Đờn ca Tài tử Nam Bộ được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19, là một loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc của Việt Nam. Với những nét tinh túy trong thang âm, điệu thức cũng như diễn tả được nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, cách trình tấu vô cùng phóng túng nhưng niêm luật chặt chẽ cùng với tính độc đáo, Đờn ca Tài tử Nam Bộ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa đại diện của nhân loại và được bảo vệ ở cấp độ quốc tế vào tháng 12 năm 2013.
Nhạc Tài tử đã được lựa chọn giảng dạy bắt buộc cho các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp trong cả nước như: Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam, Học viện âm nhạc nghệ thuật Huế, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội v.v…
“ Vào khoảng cuối những năm 30 của thế kỷ XX, giới chơi nhạc Tài tử ở hai miền Đông và Tây Nam Bộ đã thống nhất chọn ra được 20 bản nhạc trong số rất nhiều bản nhạc kinh điển và đặt tên là Hai mươi bản Tổ. Từ đấy nhạc mục của Hai mươi bản Tổ được giới chơi nhạc lấy làm căn cứ để đánh giá kiến thức và tài năng chơi đờn của các tài tử”[6;2]. Bảy bản nhạc Lễ nằm trong hệ thống 20 bản Tổ của nhạc Tài tử nhưng hiện nay trong giáo trình giảng dạy nhạc Tài tử của Bộ môn đàn Nhị - HVANQGVN chưa giảng dạy một bài bản nào trong hệ thống này; thiết nghĩ việc bổ sung một số bản nhạc Lễ vào giảng dạy là thật sự cần thiết.
Trong biên chế dàn nhạc Tài tử có nhiều loại nhạc cụ trong đó đàn Kìm, đàn Nhị (đàn Cò), đàn Tranh được xem là ba nhạc cụ chính. Khi chơi nhạc Tài tử, các nhạc công Nam Bộ thường sử dụng đàn Cò thay vì đàn Nhị như ở miền Bắc và miền Trung. Tuy nhiên việc sử dụng đàn Nhị thay vì đàn Cò ở miền Bắc đã tạo ra nhiều khác biệt trong việc thể hiện phong cách âm nhạc này, việc sử dụng đàn Nhị thay đàn Cò trong nhạc Tài tử cũng là vấn đề đáng để suy nghĩ và xem xét lại.
Là một giảng viên lâu năm của Khoa NCTT - HVANQGVN, với nhiều kinh nghiệm trong hoạt động biểu diễn cũng như giảng dạy, với niềm say mê và mong muốn nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại tại khoa Nhạc cụ Truyền thống, tôi chọn đề tài: “ Giảng dạy một số bản Nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về nhạc Tài tử ở nhiều góc độ khác nhau(Luận án, Luận văn, sách, báo và công trình nghiên cứu) của GS.Trần Văn Khê, Nguyễn Vĩnh Bảo, PGS.TS Vũ Nhật Thăng, PGS. TS. Nguyễn Thị Mỹ Liêm, Nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan, PGS.TS Bùi Thiên Hoàng Quân, TS. Cồ Huy Hùng...
Các sách, báo, luận án và luận án luận văn trên chủ yếu nghiên cứu về nguồn gốc xuất xứ, đặc điểm cấu trúc, hơi điệu... của nhạc Tài tử; những nghiên cứu về giảng dạy nhạc truyền thống trên cây đàn Nhị mới chỉ liên quan đến nhạc đàn Ca huế, dân ca, Chèo, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập về việc giảng dạy nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Khoa NCTT – HVANQGVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Các vấn đề liên quan đến giảng dạy một số bài Nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Khoa Nhạc cụ Truyền thống - Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam (Phương pháp giảng dạy, Chương trình, giáo trình…).
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ đề cập đến lĩnh vực giảng dạy một số bài Nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Khoa Nhạc cụ truyền thống - Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát một số đặc điểm, cấu trúc của 7 bài nhạc Lễ.
- Đánh giá thực trạng giảng dạy nhạc Tài tử cho SV đàn Nhị.
- Lựa chọn một số bài bản trong 7 bản Nhạc Lễ đưa vào giảng dạy.
- Khái quát lý thuyết chung về phương pháp giảng dạy và cách thức thực hiện việc giảng dạycác kỹ thuật (ngón đàn) diễn tấu Nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho đàn Nhị cũng như lối chơi ngẫu hứng trong diễn tấu nhạc Tài tử nói chung và Nhạc Lễ nói riêng.
- Đề xuất một số giải pháp trong giảng dạy Nhạc Lễ cho sinh viên đàn Nhị tại Khoa Nhạc cụ truyền thống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích dữ liệu, so sánh, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp thực nghiệm : tổ chức dạy thực nghiệm, đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Phương pháp phi thực nghiệm: thông qua khảo sát, phỏng vấn, lấy ý kiến của các chuyên gia…
6. Đóng góp của luận văn
Ngoài phần trình bầy khái quát về bảy bài Nhạc Lễ trong hệ thống 20 bài bản Tổ của nhạc Tài tử - là những kiến thức cần thiết đối với các nhạc công; Luận văn hệ thống lại các ngón đàn cơ bản nhất của nhạc công đàn Nhị khi chơi nhạc Tài tử, đồng thời luận văn còn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo Nhạc Lễ nói riêng và nhạc Tài tử nói chung.
Đề tài nếu được thông qua sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo Nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam. Là tư liệu tham khảo cho các giảng viên, học sinh - sinh viên đàn Nhị trong giảng dạy và học tập nhạc Tài tử tại HVANQGVN và các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp trên cả nước, góp phần bảo tồn và phát triển âm nhạc truyền thống của dân tộc nói chung, nhạc Tài tử Nam Bộ nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận và thực trạng giảng dạy nhạc Tài tử.
- Chương 2. Một số giải pháp
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY NHẠC TÀI TỬ
- Khái quát về nhạc Tài tử Nam Bộ
Đờn ca Tài tử là một loại hình nghệ thuật vừa mang tính bác học trong hệ thống bài bản, vừa mang tính dân gian trong sinh hoạt cộng đồng, lấy sinh hoạt đờn ca làm thú vui tao nhã, tri âm, tri kỷ. Đờn ca Tài tử cũng như con người Nam Bộ, phóng khoáng, hào sảng, chân thành, sâu lắng và thiết tha, nói lên nỗi niềm của người dân xa xứ. Nhạc tài tử thấm đậm vào trong máu của người dân Nam Bộ và trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người dân Nam Bộ.
1.1.1. Nhạc Tài tử và nhạc Lễ
1.1.1.1. Nguồn gốc xuất xứ nhạc Tài tử
Đờn ca Tài tử hình thành và phát triển bắt nguồn từ Nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế. “Đờn ca Tài tử hình thành vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nhờ các nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn theo phong trào Cần Vương vào Nam đem theo truyền thống Ca Huế. Nhưng khi vào đến miền Nam thì tiếng đờn miền Trung đã thay đổi rất nhiều... Bản chất phóng khoáng của con người và nếp sống tại miền Nam khiến cho các bài bản không còn y khuôn bản gốc ngày xưa”[2;209]. Dàn nhạc của Đờn ca Tài tử có nhiều nhạc cụ hơn dàn nhạc của ca trù và ca Huế. Các nhạc cụ sử dụng trong nhạc Tài tử thường có đàn Kìm, Cò, Tranh, Bầu, Gáo, Song loan, và Ống tiêu …
1.1.1.2. Hệ thống 20 bài bản Tổ
Các bài bản trong 20 bản Tổ gồm 3 bản Nam, sáu bản Bắc, bảy bản Lễ và 4 bản Oán..
1.1.1.3. Một số vấn đề trong cấu trúc bài bản nhạc Tài tử Nam bộ
“ Hầu hết các bài bản được sử dụng trong nhạc Tài tử nói chung hay trong số hai mươi bản Tổnói riêng đều có nguồn gốc từ những bản nhạc không lời. Mỗi bản đàn đều có một hình tượng âm nhạc riêng, được kể là một “Điệu” hay “Bản” , tất cả đều có cấu trúc tổng thể giống nhau, nghĩa là đều được phân Lớp, phân Câu và phân nhịp một cách rõ ràng”[30;30].
Trong 20 bản Tổ có các loại câu :
a)Câu nhịp tư: là loại Câu nhạc được viết ở nhịp 4/4 (C), mỗi Câu có 4 nhịp.
b)Câu nhịp tám: cũng được viết ở nhịp 4/4 nhưng mỗi Câu có 8 nhịp.
1.1.1.4. Khái quát về bảy bản Nhạc Lễ:
* Bản thứ nhất: Xàng xê
- Tính chất: Hùng tráng uy nghi nhưng dịu dàng, êm ái, đôi lúc đượm nét u buồn; là bản Nhạc Lễđược dùng nhiều nhất trong nhạc Tài tử cải lương. Xàng xê được soạn ở nhịp Tám, lái mười sáu hay còn gọi là nhịp tư lơi, có 4 lớp 64 câu:
- Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol – la – đô –rê – mi - sol ).
+ Đặc biệt ở lớp 3 (lớp xề) thang âm đã thay đổi thành Xề - Phan – Liu – U – Xang theo PGS.TS. Bùi Thiên Hoàng Quân đây là sự chuyển hơi điệu thức, lấy Xê làm Hò do đó ta có thể có điệu thức Hò – I – Xang – Xê – Phan, hơi Nam – Oán hai điệu thức này thay đổi gần như liên tục nên người nghe có được cảm giác là một đoạn nhạc có tính chất bi tráng.
*Bản thứ hai: Ngũ đối thượng
- Tính chất: uy nghi, nghiêm trang, man mác, thanh thản.
- Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol-la-đô-rê-mi-sol ).
Có sự xuất hiện của chữ nhạc I, Phan đã làm cho bản nhạc có màu sắc “Lễ” hơn. Hai âm I và Phan là hai âm lướt.
- Ngũ đối thượng được soạn ở nhịp Tư lái Tám có 5 lớp 61 câu,
*Bản thứ ba :Ngũ Đối Hạ, Còn gọi tắt là bài Hạ
Là bản nhạc được sử dụng nhiều nhất trong những buổi trình tấu nhạc Lễ còn được gọi là bản Hạ và trở thành tên gọi của bộ bảy bản Nhạc Lễ, bảy bản Hạ.
- Tính chất: uy nghi, nghiêm trang, thanh thản được soạn theo nhịp tư, lái tám có 5 lớp 38 câu.
- Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol – la – đô –rê – mi - sol ).
*Bản thứ tư: Long Đăng
Rồng Lên: Tượng trưng dương khí tính chất âm nhạc khoan thai, đượm một ít sự u buồn, nhưng tiết tấu khỏe, ít nghiêm trang như thường thấy trong Nhạc Lễ.
Long Đăng được soạn ở nhịp tư lái Tám, có 3 lớp 40 câu. Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol – la – đô – rê – mi - sol ).
*Bản thứ năm:Long Ngâm,
Tượng trưng âm khí
-Tính chất : Nhẹ nhàng, khoan thai, ít tính trang nghiêm, mang nhiều chất tự sự, ít dùng trên sân khấu cải lương.
-Long Ngâm được soạn ở nhịp tư lái Tám có 3 lớp và 33 câu :
-Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol-la-đô-rê-mi-sol ). Có 2 âm ngoại là I và Phan đôi lúc có giá trị như là âm chính làm cho điệu thức chuyển tạm sang Hò – I – Xang – Xê – Công – Líu.
*Bản thứ sáu : Vạn Giá,
Vạn vật sinh thành có giá trị.
- Tính chất âm nhạc trang nghiêm: Tuy đã được “chuyển hóa” mang phong cách tài tử nhưng vẫn còn rất rõ sự nghiêm trang, đĩnh đạc của Nhạc Lễ.
- Bản này được soạn ở nhịp Tư lái 8 có 5 lớp 47 câu :
-Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol – la – đ ô –rê – mi - sol ).
*Bản thứ bảy : Tiểu khúc
Đây là bản đàn có số câu ít nhất trong bộ bảy bản Lễ: 29 câu, một số nhạc sư Tài Tử cho rằng đây là bản tổng kết của 7 bản nhạc lễ Tài Tử Nam bộ ; nhịp độ chậm rãi, tính chất trang nghiêm của nhạc lễ được thể hiện rất rõ.
-Tiểu khúc được soạn ở nhịp tư, lái tám, có 4 lớp, 29 câu.
- Thang âm chủ đạo: Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Liu ( Sol – la – đô –rê – mi - sol ). Có 2 âm ngoại là âm I và Phan.
Bảy bản nhạc Lễ đều có điểm chung về tính chất âm nhạc : trang nghiêm, đĩnh đạc; đều có thang âm chủ đạo là Hò – Xư – Xang – Xê – Công – Líu ( Sol –la – đô – rê – mi - sol ), rung ở La và Mi. Ngoài bản Xàng xê được viết theo nhịp tám, 16 lớp, sáu bản còn lại đều được viết theo nhịp tư, lái 8. “ Các bản nhạc Lễ thường sử dụng nhịp ngoại và nhịp ngoại Song Loan”[30;53].
1.1.2. Đàn Nhị( đàn Cò) trong Nhạc Lễ
1.1.2.1. Đàn Nhị và đàn Cò
Nhị Hồ sau khi vào Việt Nam đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau nhưng thông dụng nhất là đàn Nhị và đàn Cò. Gọi là đàn Nhị vì đàn có hai dây; Ở miền Nam thì gọi là đàn Cò vì ở trên cùng của cần đàn được chế tác như cổ và mỏ con Cò. Đàn Nhị là một trong những nhạc cụ đa năng nhất trong các nhạc cụ cổ truyền, do đó nó xuất hiện trong hầu hết các loại hình âm nhạc cổ truyền dân tộc, là một trong những nhạc cụ chính trong các dàn nhạc Tuồng, Chèo, Cung đình Huế…
1.1.2.2. Một số điểm khác nhau giữa đàn Nhị và đàn Cò ( trong Nhạc Tài tử )
a) Cấu tạo:
Đưa ra bảng so sánh giưa đàn Cò và đàn Nhị : Độ dài cần đàn, khoảng cách từ trục vặn dây đến bát đàn, bầu đàn, chiều rộng mặt đàn, chất liệu mặt da, lỗ thoát âm, cữ đàn.
- Âm sắc
Từ cấu tạo của cây đàn Cò Tài tử dễ dàng nhận thấy âm sắc cây đàn Cò cao hơn so với cây đàn Nhị cải tiến (do có mặt đàn nhỏ hơn, cữ đàn thấp hơn, ngắn hơn đàn Nhị), tiếng đàn Cò lảnh lót, cao vút , réo rắt không thể hòa lẫn được vào với các nhạc cụ khác đúng với tính chất “hòa sắc không hòa thanh” của nhạc Tài tử. Cây đàn Nhị cải tiến do có mặt đàn lớn hơn (gần bằng đàn Nhị 2 trong Chèo cây đàn chuyên gợi hơi cho giọng Nam), lỗ thoát âm Nhị cải tiến cũng lớn hơn nên âm sắc trầm hơn so với đàn Cò. Thực tiễn cho thấy âm sắc của đàn Nhị rất phù hợp và có hiệu quả cao khi chơi các tác phẩm đương đại Việt Nam và Trung Quốc.
Trong hơi Lễ, đàn Cò xuất hiện như một nhân vật chính. Đàn Cò luôn hiện diện trong các ban nhạc từ ban nhạc Lễ đến nhóm Đờn cây và sau đó đến nay là các ban đờn ca Tài tử. Các bài bản của Nhạc Lễ cũng đã được dùng khi chơi đờn ca Tài tử, chính vì thế việc trình tấu những bài bản thuộc hơi Lễ được xem như một sở trường đối với đàn Cò.
- Thực trạng đào tạo nhạc Tài Tử cho SV Khoa NCTT
1.2.1. Đội ngũ giảng viên và phuơng pháp giảng dạy:
1.2.2.1. Đội ngũ giảng viên:
Một trong những người đặt nền móng đầu tiên cho sự nghiệp giáo dục âm nhạc truyền thống nói chung và cây đàn Nhị nói riêng là NSND Vũ Tuấn Đức. Tiếp nối truyền thống, NSND Thế Dân là người có nhiều đóng góp cho cây đàn Nhị trong việc soạn các giáo trình, giáo án cũng như sáng tác nhiều tác phẩm đặc sắc cho cây đàn Nhị.
Trải qua hơn 60 năm hoạt động cùng với nhiều thế hệ giảng viên lão thành. Hiện nay, các giảng viên đang làm việc tại bộ môn đàn Nhị khoa Nhạc cụ truyền thống HVANQGVN gồm có NSND Thế Dân (trưởng bộ môn), NSUT Lê Minh, GV Hồng Giót, ThS. Hải Đăng ,ThS. Thành Nhân, GV Trần Văn Xâm và một số các giảng viên trẻ khác.
- Phương pháp giảng dạy
Trong giảng dạy nhạc phong cách Tài tử - Cải lương cho các nhạc cụ truyền thống, từ trước tới nay có hai phương pháp dạy chính: phương pháp truyền ngón và phương pháp bản phổ. Phương pháp dạy truyền ngón là phương pháp dạy của các nghệ nhân, lấy hoạt động hát lòng bản làm nền tảng. Phương pháp dạy bản phổ là phương pháp được áp dụng giảng dạy các tác phẩm đương đại, tác phẩm mới tại HVÂNQGVN. Hiện nay các GV sử dụng phương pháp kết hợp dạy bản phổ với dạy truyền ngón trong giảng dạy nhạc Tài tử - Cải lương nói riêng và Chèo, ANTP Huế nói chung. Đây là sự kết hợp có chọn lọc những ưu điểm của 2 phương pháp dạy dân gian và hiện đại, giúp cho việc dạy và học được hiệu quả hơn.
1.2.2. Chương trình – giáo trình:
1.2.2.1. Về Khung chương trình:
- Năm thứ 1 Đại học SV được học nhạc phong cách Chèo và các tác phẩm sáng tác mới hoặc tác phẩm nước ngoài.
- Năm thứ 2 Đại học SV được học nhạc phong cách Huế và các tác phẩm sáng tác mới hoặc tác phẩm nước ngoài.
- Năm thứ ba đại học sẽ học nhạc phong cách Tài tử cải lương và các tác phẩm sáng tác mới hoặc tác phẩm nước ngoài.
Trung bình một năm học các em sẽ được học khoảng 7-10 bản (tùy theo khả năng tiếp thu) bao gồm bài thi cuối kỳ và các bài của lớp hòa tấu. Cuối mỗi học kỳ đều có tổ chức thi để kiểm tra, đánh giá trình độ, kết quả học tập.
1.2.2.2. Giáo trình:
Hiện nay chương trình tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam dành cho đàn Nhị phong cách truyền thống Chèo, Huế và tác phẩm mới đã khá đầy đủ cho SV đại học nhưng đối với Tài tử - Cải lương còn khá khiêm tốn, ví dụ: trong 4 hơi nhạc BẮC - HẠ - NAM – OÁN (Chỉ tính 20 bản Tổ):
- Hơi Bắc mới chỉ có bản TÂY THI VẮN , thiếu 5 bản.
- Hơi Hạ (Nhạc Lễ ) chưa có bản nào.
- Hơi Nam có Nam Xuân, Nam Ai , thiếu Nam Đảo.
- Hơi Oán có Tứ Đại Oán, thiếu 3 bản.
1.2.3. Đánh giá chung
Sau hơn 60 năm xây dựng và phát triển, bộ môn đàn Nhị, khoa Nhạc cụ truyền thống - HVANQGVN đã đào tạo được nhiều thế hệ nghệ sĩ, giảng viên có trình độ chuyên môn cao, đã và đang có những đóng góp có hiệu quả trong công cuộc xây dựng và phát triển nên âm nhạc Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiều nghệ sĩ, giảng viên đã vinh dự được nhà nước phong tặng danh hiệu NSND, NSUT như NSND Vũ Tuấn Đức, NSND Nguyễn Thế Dân, NSUT Lê Minh, Đỗ Xuân Anh, Lê Quang Dũng; nhiều giảng viên, nghệ sĩ đàn Nhị đã đoạt nhiều giải thưởng tại các cuộc thi âm nhạc trong và ngoài nước.
Tuy nhiên trong lĩnh vực Tài tử - Cải lương một số sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường chưa tiếp cận, làm việc ngay tại các nhà hát Cải lương được, từ đó dẫn tới các ý kiến trái chiều bày tỏ sự lo lắng về chất lượng giảng dạy.
Qua trao đổi với các thầy, bạn bè đồng nghiệp, chúng tôi đặt ra các giả thiết: ngoài lý do khách quan về khả năng chuyên môn của sinh viên, đó còn có thể là do các nguyên nhân khác như:
+ Việc dạy nhạc phong cách Tài tử - Cải lương tại trường chưa thật sát với thực tế làm việc. Chúng ta đang dạy các em chơi với tư duy độc tấu (điều này rất quan trọng) nhưng khi làm việc thì các em cũng rất cần đến các kĩ năng bổ trợ khác nữa (ví dụ như đệm hát, hòa tấu Tài tử , rao..).
+ Về giáo trình nhạc phong cách truyền thống Tài tử - Cải lương vẫn còn thiếu một số các bài bản thuộc các hệ thống hơi, điệu.
+ Do chỉ được học 1 tiết chuyên môn trong một tuần nên thời lượng chương trình dành cho giảng dạy nhạc phong cách Tài tử - Cải lương vẫn còn quá ít dẫn tới nhiều hạn chế cho việc dạy và học, không đủ thời gian để đi sâu vào các yếu tố thiết yếu, các ngón đàn đặc trưng. Sinh viên chưa được học kỹ năng ngẫu hứng.
+ Thiếu thực hành: trong giáo trình dạy hiện tại có rất ít thời gian cho các em thực hành (mỗi tuần được một tiết thực hành hòa tấu).
Từ thực trạng như vậy, chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan, phân tích sâu hơn nữa để tìm ra những cách điều chỉnh giảng dạy cho phù hợp để sao cho tỉ lệ những sinh viên ra trường đáp ứng được yêu cầu sẽ tăng lên và thời gian để làm quen, tiếp cận với công việc thực tế sẽ giảm đi.
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 của luận văn trình bày khái quát về quá trình hình thành và phát triển nhạc Tài tử Nam bộ, hệ thống 20 bản tổ, trong đó nêu rõ cấu trúc, hơi điệu, hình thức tổ chức dàn nhạc của 7 bản nhạc Lễ, cho đến nay chưa được giảng dạy tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam. Trong diễn tấu các loại hình âm nhạc truyền thống, nhờ vào đặc tính ngân dài âm thanh, bằng những ngón nhấn, ngón rung, vừa sâu vừa chậm, đàn Nhị( đàn Cò) có vai trò quan trọng đặc biệt trong nhạc Tài tử và nhạc Lễ.
Khi chơi nhạc Tài tử, các nhạc công Nam Bộ thường sử dụng đàn Cò thay vì đàn Nhị như ở miền Bắc và miền Trung. Việc sử dụng đàn Nhị thay đàn Cò đã tạo ra nhiều khác biệt trong việc thể hiện phong cách âm nhạc này. Thiết nghĩ để tạo âm sắc đúng chất nhạc Tài tử, việc sử dụng đàn Nhị khi chơi nhạc Tài tử tại miền Bắc và miền Trung cũng là vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc. Những kết quả khảo sát thực trạng, đặc biệt là những khảo sát liên quan đến chương trình và phương pháp giảng dạy đã giúp chúng tôi có cơ sở để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
Chương 2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
2.1. Điều chỉnh nội dung chương trình
2.1.1. Đưa một số bài nhạc Lễ vào giáo trình
2.1.1.1. Tiêu chí lựa chọn
- Phù hợp với mục tiêu và cấu trúc chương trình đào tạo và trình độ của sinh viên
Việc đưa một số bản Nhạc Lễ vào chương trình đào tạo là phù hợp với mục tiêu đào tạo cũng như cấu trúc của chương trình, những bài bản trong hệ thống Nhạc Lễ chỉ phù hợp với sinh viên ở bậc đại học. Ở cấp độ này các em đã có được một số vốn kiến thức nhất định về âm nhạc cổ truyền và kỹ thuật cao trên cây đàn mới có thể trình tấu được những bài bản Nhạc Lễ.
- Đại diện cho 7 bài nhạc Lễ
Tại đề tài này chúng tôi lựa chọn 3 bài Nhạc Lễ điển hình để đưa vào chương trình, với mong muốn đầy đủ cả 4 hơi gồm: Bắc, Hạ, Nam, Oán;
Từ các tiêu chí lựa chọn nêu ở mục trên, chúng tôi đề xuất bổ sung vào chương trình giảng dạy cho sinh viên đàn Nhị cấp học Đại học tại HVÂNQGVN 3 bản được sử dụng nhiều nhất trong trình diễn Nhạc Lễ gồm: Xàng Xê (Đây là bản được dùng nhiều nhất trong nhạc Tài tử - Cải lương), Chỉ dạy lớp 1( lớp đầu) gồm 20 câu ( nhịp 8 ).
Bản thứ hai được đề xuất đưa vào giảng dạy là Ngũ Đối Hạ - là bản nhạc được sử dụng nhiều nhất trong những buổi trình tấu nhạc Lễ còn được gọi là bản Hạ và trở thành một trong những tên gọi của bộ bảy bản Nhạc Lễ - bảy bản Hạ, nhịp độ chậm rãi, ‘tính chất nghiêm trang là tính chất chung của 7 bản Nhạc Lễ mà Ngũ đối Hạ như một đại diện’[30;48]. Dạy nguyên bài 38 câu (nhịp 4).
Bản thứ ba là Tiểu khúc, đây là bản đàn có số câu ít nhất trong bộ bảy bản Lễ: 29 câu, một số nhạc sư Tài Tử cho rằng đây là bản tổng kết của 7 bản nhạc Lễ Tài Tử Nam bộ ; nhịp độ chậm rãi, tính chất trang nghiêm của nhạc lễ được thể hiện rất rõ.
2.1.2. Lớp, câu và một số dặc điểm cần lưu ý trong giảng dạy
2.1.2.1. Xàng Xê
- Là bản duy nhất trong 7 bản nhạc Lễ được mở ra ở nhịp tám (có 4 lớp, 64 câu). Chúng tôi chỉ dạy lớp 1 gồm 20 câu đầu, là lớp có số câu nhiều nhất.
- Thang âm (thang âm chính): Hò –Xự - Xang – Xê – Cống – Líu (Sol, La, Đô, Rê, Mi, Sol); âm Phan ( pha) là âm xen vào).
- Âm non: tất cả các nốt đô trong bài đều là âm non.
- Tính chất âm nhạc : “Trang nghiêm ngưng không căng cứng, đôi lúc giai điệu rất du dương, ngân nga. Đặc biệt có sự xen lẫn hai thang âm trong cùng một lớp đã tạo cho người nghe cảm giác rất thú vị” [30;46].
- Các nốt Nhấn (rung):Xư và Công (La – Mi rung).
- Xư - Công (La - Mi) rung mạnh hơn hơi Bắc
- Nốt Vỗ: Vỗ Xê (Rê). Thang âm và và rung vỗ như điệu Bắc nhưng do lấy trục là Xề U, rồi chữ đàn (Âm điệu) => lên dây (Nhị lên dây Xề U = Rề- La) nên tính chất hoàn toàn khác với Bắc.( các bản Bắc lên dây Sol-Rê ).
- Nốt Vuốt: Trước khi về Công (Mi) thì vuốt từ Liêu (Sol) về.
Trước khi về U (La) thì vuốt từ Xang (Đô) về (ví dụ ở trên 1); Đôi khi lên Liêu (Sol) ta vuốt từ Công (Mi) lên.
- Sử dụng đàn Cò DƯƠNG. Lên dây D – A.
2.1.2.2. Ngũ Đối Hạ
- “Ngũ Đối hạ có âm sắc đạc trưng điệu Bắc – hơi Nhạc nên thường được sử dụng để gọi tên cho hơi Nhạc Lễ: Hơi Hạ”[6;130], Gồm năm lớp (38 câu nhịp tư), các lớp được phân như sau: Lớp 1 từ câu 1 đến 9, lớp 2 từ câu 10 đến 15, lớp 3 từ câu 16 đến 21, lớp 4 từ câu 22 đến 27 và lớp cuối từ câu 28 đến 38.
- Thang âm: Hò –Xự - Xang – Xê – Cống – Líu (Sol, La, Đô, Rê, Mi,Sol) là chủ đạo. Âm Phan (Pha) là âm xen vào.
- Âm non: tất cả các nốt đô trong bài đều là âm non.
- Tính chất âm nhạc : uy nghi, nghiêm trang, man mác, thanh thản.
- Các nốt Nhấn (rung): Xư và Công (La – Mi rung).
- Xư - Công (La - Mi) Nhấn mạnh hơn hơi Bắc.
- Nốt Vỗ: Vỗ Xê (Rê). Thang âm và và rung vỗ như điệu Bắc nhưng do lấy trục là Xề U, rồi chữ đàn (Âm điệu) => lên dây (Nhị lên dây Xề U = Rề- La) nên tính chất hoàn toàn khác với Bắc.( các bản Bắc lên dây Sol-Rê )
- Nốt Vuốt: Trước khi về Công (Mi) thì vuốt từ Liêu (Sol) về
Trước khi về U (La) thì vuốt từ Xang (Đô) về (ví dụ ở trên 1); Đôi khi lên Liêu (Sol) ta vuốt từ Công (Mi) lên.
-Sử dụng đàn Cò DƯƠNG, lên dây D-A hoặc đàn Cò LÍU lên dây C-G.
2.1.2.3.Tiểu khúc
Dạy nguyên bài 29 câu ( nhịp 4 ).
Đây là bản đàn có số câu ít nhất trong bộ bảy bản Lễ: 29 câu, Tiểu khúc được viết theo nhịp tư lái tám, có 4 lớp và 29 câu, số câu trong mỗi lớp khác nhau : lớp 1 có 10 câu, lớp 2 có 7 câu, lớp 3 có 8 câu và lớp 4 có 4 câu.
- Thang âm : Hò –Xự - Xang – Xê – Cống – Líu (Sol, La, Đô, Rê, Mi,Sol) là chủ đạo. Âm ngoại :âm Phan (Pha) và âm I (Si).
- Âm non: tất cả các nốt đô trong bài đều là âm non.
- Tính chất âm nhạc : uy nghi, nghiêm trang , cấu trúc: Nhỏ, ngắn.
- Các nốt Nhấn :Xư và Công (La – Mi rung).
- Xư - Công (La - Mi) rung mạnh hơn hơi Bắc.
- Nốt Vỗ: Vỗ Xê (Rê). Thang âm và và rung vỗ như điệu Bắc nhưng do lấy trục là Xề U, rồi chữ đàn (Âm điệu) => lên dây (Nhị lên dây Xề U = Rề- La) nên tính chất hoàn toàn khác với Bắc.( các bản Bắc lên dây Sol-Rê ).
- Nốt Vuốt: Trước khi về Công (Mi) thì vuốt từ Liêu (Sol) về
Trước khi về U (La) thì vuốt từ Xang (Đô) về (ví dụ ở trên 1); Đôi khi lên Liêu (Sol) ta vuốt từ Công (Mi) lên.
- Sử dụng đàn Cò Dương lên dây D-A hoặc đàn Cò Lòn dây A-D.
Trong giảng dạy cũng như biểu diễn, hòa tấu Tài tử thường sử dụng đàn Cò Dương, lên dây D-A là thuận lợi, vì phô diễn được tất cả các ngón đàn hay nhất, tinh túy nhất của cây đàn Cò trong diễn tấu 7 bản nhạc Lễ.
2.2. Phương pháp giảng dạy và cách thức thực hiện
2.2.1. Lý thuyết chung về phương pháp giảng dạy
2.2.1.1. Thuyết trình và thị phạm
Do tính chất phức tạp của hơi nhạc trong Nhạc Lễ nên việc sử dụng phương pháp thuyết trình và thị phạm trên cơ sở bản phổ rất quan trọng và hiệu quả. Phương pháp giảng dạy này đòi hỏi người thầy phải thị phạm đúng để sinh viên nắm vững và cảm thụ được ngôn ngữ âm nhạc. Nói theo từ ngữ chuyên môn là phải cho học sinh hiểu sâu về “Điệu” và “Hơi”, về nguồn gốc xuất xứ tác phẩm, về số câu, số lớp, về loại nhịp, thang âm. Bên cạnh đó là những ngón đàn như: cách nhấn, vuốt, vỗ, láy...trực tiếp trên cây đàn cho sinh viên xem và nghe trên cơ sở bản phổ cụ thể. Bên cạnh đó, giáo viên phải biết tác động vào chính tâm hồn người học để các em thấm nhuần, kết nối tương tác nhận thức – cảm thụ, cảm thụ - nhận thức.
2.2.1.2. Kết hợp phương pháp giảng dạy theo bản phổ và phương pháp truyền ngón.
Phương pháp giảng dạy trên bản ký âm với hệ thống ký hiệu sắc thái hiện đại giúp người học tiếp thu nhanh, thuộc bài nhanh và có kiến thức cơ bản để tự rèn luyện. Người học có thể trình diễn ngay được tác phẩm, tuy vậy, hệ thống ký âm hiện đại của phương Tây kết hợp với một số ký hiệu dành riêng cho nhạc cụ Truyền thống Việt Nam cũng chưa đủ để phản ánh hết những đặc trưng trong xử lý cao độ và thang âm của âm nhạc truyền thống.
Phương pháp truyền ngón, truyền khẩu và sử dụng các ngôn ngữ âm nhạc cổ trong giảng dạy giúp học sinh nắm bắt cách xử lý tinh tế của người thầy. Học sinh nhanh chóng thuộc bài qua truyền miệng và thị phạm trên nhạc cụ của thầy. Phương pháp này có ưu điểm là học sinh có thể bắt chước ngay được toàn bộ về ngón và kỹ thuật sử dụng của người thầy vừa cảm nhận được sắc thái, ‘hơi” của bài học.
2.2.1.3. Thuộc lời, Thuộc lòng bản trước khi học; nghe từ các phương tiện nghe nhìn hiện đại.
Đa số bài bản học từ nghệ nhân là học thuộc lời, học thuộc lòng bản. Việc cảm nhận và tiếp thu “Hơi” bài bản đúng phong cách do các nghệ sĩ, nghệ nhân nổi tiếng diễn tấu trực tiếp hoặc qua các phương tiện tin học và nghe nhìn hiện đại cũng hết sức cần thiết. Nghệ thuật diễn tấu nhạc Tài Tử là những lối hòa đàn ngẫu hứng với lối biến hóa thêm thắt, thêu thùa trên cơ sở lấy lòng bản làm cơ sở dẫn dắt. Thông qua việc học lời và giai điệu lòng bản từ các nghệ nhân, ca sĩ, từ băng đĩa và các phương tiện nghe nhìn hiện đại, sinh viên nắm được cách hát, cách nhả chữ, nhả câu đồng thời thấm sâu “Hơi Nhạc” từ đó vận dụng vào ngón đàn.
2.2.1.4. Xây dựng quy trình cho giảng dạy nhạc Tài tử, nhạc Lễ .
Quy trình gồm 6 bước trên nguyên tắc sử dụng phương pháp thuyết trình – thị phạm kết hợp với phương pháp truyền ngón, truyền khẩu:
-Bước 1: Giới thiệu sơ qua về nội dung, tính chất âm nhạc, các đặc điểm cần chú ý khi thể hiện (các nốt nhấn, vỗ, cách bấm non, già…).
-Bước 2: Giảng viên thị phạm bản đàn cho sinh viên nghe đồng thời kết hợp cho nghe bài hát cùng lúc ( trong nhạc Tài Tử giọng hát cũng được coi như 1 cây đàn ). Hướng dẫn tìm các tư liệu nghe (băng đĩa, internet..).
-Bước 3: Hướng dẫn SV thực hành tại lớp, thực hành từng câu. Người thầy sẽ quan sát và lắng nghe khi sinh viên thực hành và đưa ra nhận xét giúp SV sửa khi đánh sai, chưa hiểu bản đàn.
-Bước 4: Giảng viên hướng dẫn SV cách tự luyện tập tại nhà và đánh dấu những chỗ sinh viên chưa làm được tại lớp để về nhà chú trọng tập vào các chỗ đó.
-Bước 5: Sau quá trình tự luyện tập của SV, người thầy nghe lại và đưa ra nhận xét, hướng dẫn tiếp về các ngón đàn nâng cao, các cách diễn tấu ngẫu hứng, cách chơi hòa tấu với các nhạc cụ khác.
-Bước 6: Kiểm tra đánh giá thông qua các kì thi giữa kì và cuối kì hoặc biểu diễn tại khoa.
2.2.2. Cách thức thực hiện
Để diễn tấu đúng phong cách, ra chất của một bản nhạc Tài tử, người chơi đàn Nhị cần phải nắm vững các kỹ thuật tay phải (cung vĩ), kỹ thuật tay trái (rung nhấn, vuốt, láy...) và một số kỹ năng ngẫu hứng cơ bản; cần phải phân biệt được sự khác nhau khi sử dụng các ngón đàn trong các phong cách âm nhạc.
2.2.2.1. Giảng dạy một số kỹ thuật diễn tấu trong các bài Nhạc Lễ
a. Kỹ thuật tay phải
- Cung vĩ liền: Là cách dùng cả cung vĩ (kéo hoặc đẩy) không ngắt quãng để tạo nhiều âm trên cùng một cung vĩ. Âm thanh được tạo ra bởi cung vĩ liền sẽ thể hiện được sự da diết, tình cảm, nội tâm,hoặc mạnh mẽ,nghiêm trang được sử dụng trong các bài bản hơi Oán, hơi Ai, hơi Lễ. Thông thường là một vĩ kéo 4 âm, có khi kéo 3 âm một vĩ.
- Cung vĩ rời: là cách dùng cung vĩ (kéo hoặc đẩy) tạo ra một âm nhưng vĩ không nẩy hoặc bị tách khỏi dây đàn.
+ Cung vĩ rời lớn: Dùng kĩ thuật cung vĩ rời để kéo (hoặc đẩy) hết chiều dài của cung vĩ. Kĩ thuật này sẽ cho ta những âm thanh đầy đặn, da diết. Sử dụng nhiều trong các đoạn Rao, các bản hơi Ai, Oán… Đây là kĩ thuật được sử dụng nhiều trong các kĩ thuật tay phải. Thường dùng trong các điệu có tốc độ chậm, sâu lắng, trang nghiêm trong các bản Lễ, các bản Nam, các bản hơi Oán, hơi Ai.
+ Cung vĩ rời nhỏ: dùng kĩ thuật cung vĩ rời để kéo hoặc đẩy, nhưng chỉ dùng một phần của cung vĩ 1/2 hoặc 1/3, hay nhỏ hơn sẽ tạo nên sự linh hoạt, nhẹ nhàng, tinh tế. Thông thường hay sử dụng trong các bản đàn có tiết tấu nhanh, vui trong các bản hơi Bắc, hơi Quảng, hơi Lễ.
- Cung vĩ ngắt: Dùng khi cần tạo nên những âm ngắn, ngắt quãng. Có nhiều kiểu cung vĩ ngắt như ngắt rời, ngắt liền… nhưng trong nhạc Tài tử thường chỉ dùng kiểu ngắt rời, đánh ngắt từng âm, mỗi âm do một đường cung vĩ kéo hoặc đẩy tạo nên. Cách kéo ngắn gọn, không nhấc vĩ lên khỏi dây, bát đàn. Khi kết hợp với kĩ thuật cung vĩ rời lớn, nốt thứ nhất dùng kĩ thuật cung vĩ rời lớn, nốt thứ 2 dùng kĩ thuật cung vĩ ngắt rời đồng thời bóp một chút dây đàn vào phía trong cần đàn sẽ cho ra hiệu quả âm thanh như tiếng nấc, tiếng khóc của con người, rất hay sử dụng trong các điệu Ai, Oán.
b. Kỹ thuật tay trái
NHẤN: là dùng ngón tay bóp dây đàn sâu vào phía cần đàn với một lực đều và liên tục sẽ tạo ra một sự rung động lớn về âm thanh có thể lên tới gần 1 cung. Kiểu nhấn này đặc biệt được sử dụng nhiều trong nhạc Tài tử và Nhạc Lễ. Tùy theo “tần số” nhấn nhanh hay chậm, nông, sâu sẽ diễn tả các sắc thái tình cảm khác nhau. Tuy nhiên về tốc độ nhấn trong nhạc Tài tử thường nhấn ở tốc độ chậm, sâu và dật cục hơn so với các phong cách âm nhạc cổ truyền khác
*Kỹ thuật Vuốt tay trái
VUỐT là chuyển động của ngón tay sao cho âm thanh được tạo ra giữa 2 nốt cần vuốt không còn khác biệt rõ nét của sự chuyển đổi về cao độ. Người nhạc công sẽ đánh 1 nốt trước rồi chuyển động ngón tay, có thể cùng 1 ngón đó hoặc dùng ngón khác liền mạch trên dây đàn, không dời tay khỏi dây đàn tới vị trí nốt thứ 2. Có thể vuốt từ nốt thấp đến nốt cao hoặc ngược lại. Trong nhạc Tài tử dùng kĩ thuật này để tạo sự mềm mại cho giai điệu. Tốc độ vuốt nhanh chậm tùy thuộc vào tính chất của hơi điệu nhạc. Trong các bài bản nhạc Lễ, do tính chất âm nhạc nghiêm trang, uy nghi, đĩnh đạc nên các ngón vuốt cũng ở tốc độ vừa phải, không nhanh, không chậm. Các quãng vuốt đặc trưng là: Đô về Mi và Đô về La.
*Kỹ thuật Láy (ngón vỗ)
Giữ nguyên tay bấm, sau đó nháy nhanh, bấm rồi thả tay ra luôn nốt cần láy. Ngón láy là ngóndùng không nhiều trong nhạc Tài tử và bảy bản Nhạc Lễ khi so với các thể loại âm nhạc truyền thống khác như Chèo hay Tuồng. Thường là láy 1 nốt, láy 2, 3,4 nốt ít dùng hơn và láy quãng 2 không có quãng 3 như Chèo hay một số loại hình âm nhạc khác.
Bảng so sánh các kỹ thuật diễn tấu giữa nhạc Tài tử và ANTP Huế, Chèo nêu sự khác nhau giữa các phong cách thông qua rung, nhấn, luyến, láy...
2.2.2.2. Giảng dạy kỹ năng ngẫu hứng
* Khái quát về nguyên tắc ngẫu hứng
Hệ thống bài bản trong Nhạc Lễ - Tài Tử rất phong phú vì thế mà có nhiều phong cách thể hiện khác nhau, người nhạc công được phép ngẫu hứng phô diễn, tô điểm, phóng tác được nhiều kỹ năng miễn là bám sát lòng bản và quy luật hòa tấu.
Lòng bản (Dị bản) trong Nhạc Lễ chủ yếu lưu truyền qua phương thức truyền miệng, truyền ngón, truyền nghề. Quá trình lưu truyền này luôn luôn được biến đổi mà không lệ thuộc vào những khuôn mẫu và bản ghi nhất định nào. Do đặc điểm này mà người chơi đàn có điều kiện để phát huy khả năng ứng tác, ứng biến một cách linh hoạt. Tuy vậy các nhạc công phải tuân thủ các phương pháp tô điểm dựa trên đặc tính nhạc cụ và lòng bản, có thể nói trong khi hoà tấu Nhạc Lễ, các nhạc công chính là tổng hoà của hai chức năng, vừa là biểu diễn, vừa là sáng tác. Chức năng sáng tác ở đây chính là sự ứng tấu ngẫu hứng liên tục trong quá trình diễn tấu.
*Khái quát về một số kỹ năng ngẫu hứng
Ngẫu hứng là yếu tố vô cùng quan trọng khi chơi nhạc Tài tử, theo GS. Trần Văn Khê :“Khi diễn tấu một điệu nhạc, riêng chỉ những nốt nằm ở phách đầu mỗi nhịp là phải được tôn trọng. Người nhạc công được tự do biến đổi những nốt nằm ở phách yếu”[28;298].
Với nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo, ông nêu: “Trong nhạc Tài tử Nam bộ cũng như nhiều thể tài của nhạc truyền thống khác, nhạc phẩm chỉ là cái sườn bản, còn những yếu tố khác như trang trí (nhấn, rung, mổ, vuốt), tiết tấu, hoa lá là do diệu tài, nguồn cảm hứng của người nhạc sĩ” [1;5].
Từ khảo sát thực tế diễn tấu, ngẫu hứng thêm thắt - hoa lá của diễn tấu nhạc Lễ và nhạc Tài tử thể hiện ở một số kỹ năng sau:
*Kỹ năng Biến hóa tiết tấu: trong đó số lượng chữ đàn (số nốt nhạc trong 1 câu nhạc) âm hình tiết tấu không quy định hay hạn chế. Chỉ cần phù hợp với tính năng nhạc cụ và chứa đựng lòng bản và tôn trọng hơi của bài bản. Những hiện tượng thay đổi, biến hóa 1 bài bản từ nhịp 2 thành nhịp 4 từ nhịp 4 thành nhịp 8.v.v. như nhiều bài bản tài tử (nhịp vắn, đoản sang trường, ban đầu là sự ngẫu hứng thêm thắt nhưng tiếp đó là sự phát triển, mở rộng bài bản, sự phát triển đến độ chín muồi sẽ xuất hiện ra một bài bản mới, phát sinh từ bản cũ.
*Kỹ năng bám (dựa) sát lòng bản khi diễn tấu hoặc hòa tấu: Không được thay đổi độ dài của lòng bản, số nhịp của câu nhạc bài bản quy định là số nhịp tư hay nhịp 8 thì phải đàn đúng không được kéo dài thêm. Điều này là một quy định bắt buộc.
Trong hệ thống các bài bản nhạc tài tử Nam Bộ có một số bài bản có cả nhịp tư và nhịp 8 nhưng trước khi hòa đàn phải quy định với nhau là hòa bài bản nào nhịp tư (bản vắn, đoản) hay nhịp 8 (bản Trường, Chấn) từ đó nghe tiếng song loan người diễn tấu và người nghe đều hiểu rằng câu nhạc đang ở nhịp thứ bao nhiêu ? đang được diễn tấu thuộc cấu trúc nào ?
*Kỹ năng hòa tấu: Trong hòa tấu, những điểm đồng âm thường ở đầu, cuối câu nhạc và nơi điểm song loan. Người nghệ sĩ có thể không cần thể hiện sự ngẫu hứng liên tục, hoặc trong toàn bộ bài bản. Đôi lúc có thể chỉ cần đàn lòng bản, trong khi những bạn diễn có thể thêm thắt, chạy ngón, chuyền ngón... Phần ngẫu hứng nhất trong nhạc Tài tử là phần “rao” hay còn gọi là câu nhạc khởi đầu của người đờn hoặc nói lối của người ca trước khi vào bản đờn chính. Câu rao khởi đầu thường rất ngẩu hứng của người chơi đờn, họ dùng để thử dây đồng thời thử đờn. Câu rao không có nhịp phách cố định, không có lòng bản như bản đờn, người chơi câu rao chỉ cần theo đúng điệu thức đã chọn lựa mà sáng tác. Bên cạnh đó, câu rao còn là một dịp để nhạc công phô tài tuỳ hứng sáng tác những khúc nhạc mới lạ.
2.3. Thực nghiệm sư phạm
2.3.1. Giáo án thực nghiệm
Giáo án: Tên bài: Xàng Xê (Lớp 1) 20 câu nhịp 8.
- Phương pháp giảng dạy: Thuyết trình, thị phạm kết hợp bản phổ với truyền ngón và tư liệu, băng đĩa của các nghệ nhân.
- Cử 3 SV năm thứ 3 học thực nghiệm, gồm:
+ SV Lê Thanh An, SV Tạ Thị Diệp Và SV Nguyễn thế Anh.
- Thời gian thực hiện: 01 Học kỳ (Học kỳ I năm học 2016 -2017).
- Hình thức học: Lên lớp cá nhân. Nhạc cụ sử dụng: đàn Cò.
c) Giáo án chi tiết các bước giảng dạy ( gồm 6 bước):
Các bước
|
Nội dung
|
Bước 1
|
- Giao bài, Giới thiệu khái quát về bài Xàng Xê, lớp 1, nội dung, tính chất âm nhạc, các đặc điểm cần chú ý khi thể hiện (ký hiệu các nốt nhấn, vỗ, cách bấm non, già…). .
|
Bước 2
|
-Giảng viên thị phạm bản đàn cho sinh viên nghe. Hướng dẫn cách tập cơ bản, đơn giản, vỡ bài theo bản phổ đã được ký âm, hướng dẫn sinh viên luyện tập những đoạn nhạc cần đặc biệt chú ý. PPGD: bản phổ.
|
Bước 3
|
-GV Hướng dẫn SV thực hành tại lớp.. Người thầy sẽ quan sát và lắng nghe khi sinh viên thực hành và đưa ra nhận xét giúp SV sửa khi đánh sai, chưa hiểu bản đàn.
Hướng dẫn cho sinh viên đàn cụ thể những âm non âm giàtrong bài (đối với bản Xàng xê là âm Xang nốt Đô non).
PPGD: Kết hợp bản phổ và truyền ngón.
|
Bước 4
|
-Giảng viên hướng dẫn SV cách tự luyện tập ở nhà, đánh dấu những chỗ sinh viên chưa làm được tại lớp để về nhà chú trọng tập vào các chỗ đó. GV Thị phạm các kỹ thuật ngón. Hướng dẫn luyến, láy, nhấn... cụ thể đã được ghi trong bản phổ. PPGD: Kết hợp bản phổ và truyền ngón.
|
Bước 5
|
-Sau quá trình tự luyện tập của SV, người thầy nghe lại và đưa ra nhận xét, hướng dẫn tiếp về các ngón đàn nâng cao, các cách diễn tấu ngẫu hứng, cách chơi hòa tấu. Hướng dẫn SV hòa tấu với các nhạc cụ khác, giới thiệu cho sinh viên một số kỹ năng chơi hòa tấu (đàn buông bắt, bỏ câu, cách vào ra, rao đàn…). Tiếp tục hoàn thiện thêm kỹ năng chơi hòa tấu với các nhạc cụ khác và tham khảo ý kiến, góp ý của đồng nghiệp…
PPGD: Kết hợp bản phổ và truyền ngón.
|
Bước 6
|
-Kiểm tra đánh giá thông qua các kì thi giữa kì và cuối kì hoặc biểu diễn tại Khoa.
|
2.3.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Sau khi tham khảo ý kiến đóng góp của GV trong tổ bộ môn và các đồng nghiệp và các SV của khoa tại kỳ thi cuối học kỳ về kết quả của nhóm sinh viên học theo giáo án thực nghiệm, chúng tôi có những nhận xét và đánh giá như sau:
- Các SV tham gia học phương pháp mới đã đàn “chất” hơn: Các nốt nhấn, luyến, láy, vỗ, non già… đã nghe giống với nhạc Tài tử hơn chứ không phải những bản etude có nhấn, vỗ... không bị lẫn lộn với các phong cách nhạc cổ truyền khác.
- Việc sử dụng đàn Cò trong giảng dạy và học tập theo giáo án thực nghiệm đã góp phần không nhỏ trong việc thể hiện rõ tầm quan trọng của cây đàn Cò trong nhạc Lễ thông qua âm sắc đặc trưngmà nó thể hiện
- Từ kết quả đã nêu ở trên chúng tôi thấy rằng các giải pháp đưa ra đã mang lại những hiệu quả đáng khích lệ, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy Nhạc Lễ trong nhạc Tài tử cho sinh viên bộ môn đàn Nhị tại Khoa NCTT - Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Tài tử cho SV chuyên ngành đàn Nhị.
Một trong các giải pháp được đề xuất là đổi mới nội dung giáo trình, cụ thể bổ sung 3 bản nhạc Lễ vào chương trình giảng dạy với các tiêu chí: phù hợp với mục tiêu và cấu trúc của chương trình đào tạo, đại diện cho 7 bản nhạc lễ và phù hợp với trình độ của sinh viên.
Ngoài giải pháp đã nêu trên, chương 2 cũng đã đưa ra các giải pháp thông qua hướng dẫn thể hiện các kĩ thuật đàn Nhị và một số kỹ năng ngẫu hứng thường sử dụng trong nhạc Tài tử, từ đó vận dụng vào các tình huống đàn nhị hòa tấu nhạc Tài tử với các nhạc cụ khác; Đàn Nhị chơi các ngón lòn , chạy chữ, đuổi chữ, buông, bắt... trong lúc hòa tấu. Để có thể chơi ra chất nhạc Tài tử, việc sử dụng đàn và cách chọn đàn, lên dây đàn để tạo ra âm sắc đặc trưng của nhạc Tài tử cũng được đề cập một cách nghiêm túc.
Một nội dung quan trọng trong chương 2 là cách thực hiện và các bước giảng dạy). Để có thể xác định được hiệu qủa của các giải pháp đã đề xuất trong luận văn, phần cuối của chương 2 đã tiến hành biên soạn giáo án thực nghiệm, tổ chức dạy thực nghiệm, tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả dạy thực nghiệm thông qua buổi thi cuối học kỳ của nhà trường, phối hợp với lấy ý kiến đánh giá của bộ môn. Bộ môn đã thống nhất nhận xét kết quả giảng dạy giáo án thực nghiệm là đáng khích lệ. Điểm thi của các SV đã tiến bộ hơn so với học kỳ I (chưa học theo giáo án thực nghiệm). Nếu như trước kia các SV mới chỉ thể hiện các bản đàn ở mức chơi đúng nốt rung nhấn, luyến láy thì sau khi được học theo giáo án thực nghiệm, các SV được tiếp cận với nhạc Lễ, bước đầu thể hiện được cả phần hồn, tính chất của bản đàn.
KẾT LUẬN
Nhạc Tài tử là một trong ba thể loại âm nhạc mang phong cách vùng miền rất rõ nét với nhiều yếu tố mang tính chất đặc trưng đã được lựa chọn để giảng dạy trong các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp trên cả nước. Đờn ca Tài tử Nam Bộ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa đại diện của nhân loại và được bảo vệ ở cấp độ quốc tế.
Chương 1 của luận văn trình bày khái quát về quá trình hình thành và phát triển nhạc Tài tử Nam bộ, hệ thống 20 bản tổ, trong đó nêu rõ cấu trúc, hơi điệu, hình thức tổ chức dàn nhạc của 7 bản nhạc Lễ. Những kết quả khảo sát thực trạng, đặc biệt là những khảo sát liên quan đến giáo trình và phương pháp giảng dạy giúp chúng tôi có cơ sở thực tiễn để đề xuất bổ sung vào giáo trình một số bản nhạc Lễ nhằm tạo sự phong phú, đa dạng và nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Tài tử cho sinh viên đàn Nhị tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam.
Bên cạnh việc bổ sung 3 bản nhạc Lễ được sử dụng nhiều nhất, nội dung của chương 2 đề cập đến những giải pháp trong giảng dạy 3 bản nhạc Lễ đã được lựa chọn, đặc biệt nhấn mạnh đến những yếu tố cơ bản trong diễn tấu như rung, nhấn, luyến láy, các âm non già và một số khái quát về ngẫu hứng khi diễn tấu. Để có được âm sắc đặc trưng của nhạc Lễ nói riêng và nhạc Tài tử nói chung, việc sử dụng đàn cò thay vì đàn nhị như hiện nay cũng là một vấn đề cần xem xét.
Trong phần thực nghiệm sư phạm chúng tôi đã đề xuất giáo án thực nghiệm và giảng dạy thực nghiệm trong đó áp dụng các giải pháp đã đề xuất, từ những kết quả bước đầu sau quá trình triển khai thực nghiệm, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Tài tử nói chung và nhạc Lễ nói riêng tại bộ môn đàn Nhị, khoa Nhạc cụ truyền thống – HVANQGVN đồng thờigóp phần vào công cuộc gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc.
KHUYẾN NGHỊ
Để có thể nâng cao chất lượng giảng dạy nhạc Tài tử nói chung và nhạc Lễ nói riêng mà đề tài đã thực hiện, chúng tôi xin có một số khuyến nghị sau:
- Sử dụng đàn Cò trong giảng dạy và biểu diễn nhạc Tài tử thay vì đàn Nhị như hiện nay.
- Thường xuyên tổ chức các hội thảo khoa học về nhạc Tài tử - Cải lương với sự tham gia của các giảng viên, nghệ nhân và các nhà khoa học.
- Biên soạn giáo trình về nhạc Tài tử, trong đó có có bổ sung ba bài nhạc Lễ là Xàng xê, Ngũ đối hạ và Tiểu khúc như đã đề xuất trong đề tài.
- Nghiên cứu đến các phương án kết hợp giảng dạy với các cơ sở có đào tạo các diễn viên cải lương ( như học sinh,sinh viên trường ĐH và SKĐA khoa kịch hát dân tộc ) tạo điều kiện cho HS-SV được thực hành tốt hơn.
- Tổ chức các buổi ngoại khóa tại các nhà hát Cải lương trên địa bàn thành phố, đây chính là những cơ hội để cho các SV được trực tiếp tiếp xúc và học hỏi với với các nghệ sỹ có kinh nghiệm lâu năm trong nghề với thực tế sân khấu, điều mà các em rất thiếu khi ngồi trên ghế nhà trường
- Tăng số giờ học chuyên môn thêm 1 tiết một tuần, hiện khối lượng học tập là không nhỏ mà sinh viên chỉ được học 1 tiết/ tuần. Kết quả học tập sẽ tốt hơn nhiều nếu mỗi sinh viên được học chuyên môn chính 2 tiết một tuần.